Cây núc nác, còn được biết đến với các tên gọi như nam hoàng bá, hoàng bá nam, mộc hồ điệp, ngọc hồ điệp, vân cố chỉ, bạch ngọc chỉ, là một trong những loài thực vật có hoa trong họ Chùm ớt. Được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên vào năm 1753 dưới danh pháp Bignonia indica,
cây núc nác có thân cao tới 7-10m, thân nhẵn ít phân nhánh, có nhiều sẹo lá, vỏ màu xám. Lá kép lông chim hai lần, dài tới 1.5m. Hoa màu đỏ tím to, mọc thành chùm ở đầu cành. Quả nang to, dẹp, dài tới 80cm, rộng 5-7cm. Hạt dẹt có cánh mỏng màu trắng ngà.
Loài cây này thường mọc hoang ở miền núi và được trồng nhiều làm cảnh. Ngoài tính cảnh quan, cây núc nác còn có giá trị trong lĩnh vực y học. Flavonoid trong núc nác có tác dụng kháng khuẩn, kháng viêm, chống dị ứng và làm giảm tính thấm của màng mao mạch, giúp chống lại một số bệnh viêm nhiễm.
Vỏ cây núc nác được sử dụng để chữa bệnh ngoài da, bệnh sởi và kiết lỵ. Hạt cây có tác dụng chữa ho lâu ngày, viêm khí quản và đau dạ dày. Ngoài ra, cây núc nác còn có nhiều ứng dụng khác trong y học cổ truyền. Rễ cây được sử dụng để chữa bệnh suy nhược thần kinh, mất ngủ, huyết áp cao và các bệnh liên quan đến hệ thống thần kinh. Lá cây được sử dụng để làm thuốc chữa bệnh sốt và giảm đau.
Cây núc nác cũng được sử dụng trong các sản phẩm chăm sóc da và tóc. Tinh dầu núc nác có tính chất kháng khuẩn và khử mùi, được sử dụng làm thành phần trong các sản phẩm chăm sóc tóc và da, giúp làm sạch và cải thiện vấn đề về mùi cơ thể.
Trong tự nhiên, cây núc nác thường mọc dại ở miền núi và được trồng nhiều ở Việt Nam và một số nước khác như Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc. Với những giá trị về y học và tính cảnh quan, cây núc nác đang trở thành một trong những loài cây được chú ý và quan tâm tại nhiều quốc gia trên thế giới.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn